Review

Sản xuất giống nhân tạo cá thát lát cườm

1. Phân loại và đặc điểm hình thái cá thát lát cườm
a) Hệ thống phân loại:
– Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993), FishBase (2010) cá thát lát cườm có hệ thống phân loại như sau:
Ngành có dây sống: Chordata
Ngành phụ có xương sống: Vertebrata
Tổng lớp miệng có hàm: Gnathostomata
Bộ: Osteoglossiformes
Họ: Notopteridae
Giống: Chitala
Loài: Chitala chitala Hamilton,1882
+ Tên khoa học khác: Notopterus chitala, Notopterus maculatus; Chitala ornat.
+ Tên tiếng Việt khác: cá cườm, cá nàng hai, cá đao, cá còm.
+ Tên tiếng Anh: Clown knife fish hay Feather back fish.

09-ca-that-lat-cuom-d8a8f394ff4b466d8eaa

– Cá có màu xám bạc, lưng sẫm hơn. Cá trưởng thành có 4 – 10 đốm đen, viền trắng nằm dọc phía trên vây hậu môn. Lúc cá còn nhỏ thân có 10 – 15 sọc đen ngang thân. Khoảng 2 tháng tuổi phần dưới của các sọc này xuất hiện các đốm nâu tròn. Cá càng lớn, đốm càng rõ nét trong khi các sọc mờ dần rồi mất hẳn (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương,1993).

b) Đặc điểm hình thái
– Cá có thân dài, dẹp bên, lưng gù độ cong của lưng tăng dần theo kích thước của cá. Lườn bụng bên có hai hàng gai chạy dọc theo lườn bụng. Vảy nhỏ phủ khắp thân và đầu, vảy dính rất chắc, khó rụng, vảy ở đầu có cùng kích thước với vảy ở thân. Đường bên bắt đầu từ mép trên của lỗ mang và chấm dứt ở điểm giữa gốc vi đuôi (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).

– Vi lưng của cá thát lát cườmnhỏ, nằm lệch về phía sau của thân, gần điểm giữa gốc vi đuôi hơn gần chóp mõm. Gốc vi hậu môn rất dài, vi hậu môn nối liền với vi đuôi. Vi bụng rất nhỏ. Vi đuôi tròn, không chẻ hai (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).

– Cá có đầu nhỏ, nhọn, dẹp bên. Miệng trước, rạch miệng xiên kéo dài qua khỏi mắt, xương hàm trên phát triển. Răng nhọn, bén mọc ở hàm dưới, phần gai giữa xương hàm trước, xương khẩu cái, xương lá mía và lưỡi, ngoài ra còn có đám răng nhỏ mịn trên xương bướm phụ. Có một đôi râu mũi ngắn nhỏ. Mắt nằm lệch về phía lưng của đầu, gần chóp mõm hơn gần điểm cuối của xương nắp mang. Phần trán gần hai mắt cong và lồi tương đương đường kính mắt. Miệng rộng, màng da sau xương nắp mang rất phát triển (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).

2. Sự phân bố
– Trong tự nhiên cá thát lát cườmphân bố ở nhiều nước trên thế giới như Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Indonesia, Malaysia. Ở Việt Nam, cá phân bố chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng tây nguyên (Gia Lai, Đắk Lắk, Kom Tum). Mùa nước lũ, cá đi vào các đồng ruộng ngập nước sinh sống, mùa khô, cá ra sống ở các rạch lớn, sông chính, các vực nước sâu. Cá thát còm sống được ở vực nước có lượng oxy thấp, nhờ cơ quan hô hấp phụ. Trong điều kiện tự nhiên, cá sống ở tầng giữa và tầng đáy. Ban ngày cá thường ẩn nấp trong đám thực vật thuỷ sinh. Ban đêm cá hoạt động nhiều hơn, cá bơi lội chậm nhẹ nhàng, vây hậu môn hoạt động liên tục như làn sóng, cá thích sống trong môi trường có nhiều thực vật thuỷ sinh lớn, pH nước 6,5 – 7, nhiệt độ thích hợp cho cá từ 26 – 28 độ C (Dương Nhựt Long, 2003).

Xem thêm :  Trang trại nuôi dê thịt: cách tạo lập mô hình nuôi dê tại ninh thuận

– Theo Lã Thị Ánh Nguyệt (2011) nhiệt độ không sinh học của cá thát lát cườmlà 11,6 độ C. Cá 1 – 50 ngày tuổi có ngưỡng nhiệt độ dưới dao động trong khoảng 10,1 – 11 độ C, ngưỡng nhiệt độ trên từ 41 – 41,7 độ C; ngưỡng độ mặn của là 11 – 12‰, ngưỡng pH thấp là 3,5 – 4,5 và ngưỡng oxy là 0,53 – 0,77 mg/L.

3. Đặc điểm dinh dưỡng
– Hệ tiêu hoá của thát lát cườm gồm miệng, thực quản, dạ dày và ruột. Cá có miệng trước, rộng, rạch miệng xiên và kéo dài ra khỏi mắt, xương hàm trên phát triển. Răng nhiều, nhọn mọc ở hàm dưới trên phần giữa xương trước hàm, trên xương khẩu cái, xương lá mía và lưỡi. Ngoài ra còn có đám răng nhỏ mịn trên xương bướm phụ, vì vậy chúng có thể bắt giữ, cắn xé con mồi. Thực quản của cá ngắn, rộng và có vách hơi dày. Dạ dày hình chữ J có vách hơi dày. Ranh giới giữa ruột non và ruột già không phân biệt rõ ràng. Tỉ lệ Li/L0 = 0,3 cho nên đây là loài ăn động vật (Dương Nhựt Long, 2003).

– Trần Thị Thanh Hiền và ctv. (2007) đã xác định tỉ lệ chiều dài ruột và chiều dài thân (Li/Ls) của cá thát lát cườm từ ngày tuổi thứ 5 đến 30 biến đổi ít, dao động từ 0,31 – 0,5 và cá giai đoạn 30 ngày tuổi đã thể hiện tính ăn động vật.

– Theo Mai Đình Yên (1983) cá thát lát (Noptopterus) thuộc nhóm ăn tạp, trong ống tiêu hóa của chúng đã bắt gặp côn trùng, giáp xác, phiêu sinh thực vật, rễ thực vật thủy sinh, cá con, nhuyễn thể và bùn đáy. Trong dạ dày cá thát lát (Notopterus notopterus Pallat) cỡ cá 99 – 281 mm có 25,09% là giáp xác và 17,41% là cá, 14,95% côn trùng, 14,51 mùn bả hữu cơ, 20,18% mảnh thực vật, 0,4% tảo, 0,11% nguyên sinh động vật và 0,47% động vật thân mềm (Hossain et al., 1990). Trong khi đó, thức ăn ưa thích của thát lát cườm (Chitala chitala Hamilton) là giáp xác, côn trùng, nhuyễn thể và cá. Cá và tép là loại thức ăn ưa thích nhất của chúng. Cá chiếm tỷ lệ từ 20,05 – 40,65% trong dạ dày cá còm, còn giáp xác chiếm 3,5 – 38,39% và các tỷ lệ này phụ thuộc vào các vùng sinh sống khác nhau của thát lát cườm ở Ấn Độ (Sarkar and Deepak, 2009). Thành phần thức ăn trong ống tiêu hóa của thát lát cườm gồm có tảo lục (4%), tảo khuê (4%), tảo lam (3%), giáp xác (10%), nguyên sinh động vật (5%), mùn bả hữu cơ (3%), nhuyễn thể (13%), luân trùng (4%), côn trùng (15%), thực vật bậc cao thủy sinh (5%), cát và bùn (4%), cá (28%) và một số thức ăn không xác định được (2%) (Sarkar and Deepak, 2009).

Xem thêm :  Kỹ thuật nuôi thỏ thả vườn đầy đủ, chi tiết nhất

– Cá thát lát cườm rất dữ. Cá tấn công những con cá khác để làm mồi khi đói. Khi bị sốc môi trường hoặc thay đổi mồi ăn đột ngột chúng có thể bỏ ăn cho đến khi kiệt sức và nhiễm bệnh chết. Do đó trong điều kiện nuôi không nên gây sốc môi trường hay thay đổi mồi đột ngột mà phải tập cho cá quen dần với thức ăn mới và cho cá ăn đúng giờ (Nguyễn Chung, 2006).

– Do cá thát lát cườm có đặc tính ăn động vật nên khi sử dụng thức ăn hỗn hợp các hàm lượng carbohydrate cao để nuôi cá thì chúng phải được tập cho ăn từ nhỏ Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2004).

4. Đặc điểm sinh trưởng
– Từ cá bột mới nở đến cá con 3 – 4 cm mất khoảng 30 – 40 ngày. Cá chậm lớn và phải mất thêm 30 – 40 ngày nữa cá mới đạt chiều dài 12 – 15 cm. Trong nuôi thương phẩm, từ tháng thứ 3 cá tăng trọng nhanh, sau 6 tháng nuôi cá có thể đạt khối lượng 400 – 500 g và sau 1 năm nuôi cá có thể đạt 1 kg. Mỗi năm cá có thể tăng trọng thêm 1 – 1,2 kg (Nguyễn Chung, 2006).

– So với cá cùng họ thì cá thát lát cườm (Chitala chitala) có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn cá thát lát thường (Notopterus notopterus). Cá tăng trọng nhanh, thông thường cá sau 1 năm tuổi có chiều dài trung bình khoảng 30 – 40 cm và nặng từ 800 – 1.200 g/con. Trong ao nuôi, cá thát lát cườm có thể đạt kích cỡ 500 – 600 g/con sau 6 tháng nuôi (Dương Nhựt Long, 2003).

– Theo Sarkar et al. (2008) cá thát lát cườm thu được từ lưu vực sông Bhagirati, Koshi, Saryu và Ganga lớn nhất 6 năm tuổi tương ứng với chiều dài cá từ 103,3 – 107,4 cm. Cá thát lát cườm bắt được ở lưu vực sông Banga, Ấn Độ có chiều dài từ 31 – 120 cm và khối lượng từ 0,55 – 12,0 kg (Sarkar et al., 2009).

5. Đặc điểm sinh sản và tình hình sản xuất giống
– Cá thát lát cườm cái thành thục khoảng 3 năm tuổi, còn cá đực thành thục sớm hơn, khoảng 2 năm tuổi (Sarkar et al., 2007). Cá bố mẹ thát lát cườm được nuôi vỗ bằng thức ăn tươi sống gồm cá nhỏ, cá rô phi và tép và hệ số thành thục của cá thát lát cườm cái đạt cao nhất vào tháng 6 với giá trị là 4,63 ± 0,50% (Kohinoor et al., 2012). Theo Phạm Phú Hùng (2007), cá thát lát cườm được nuôi vỗ sau 4 tháng sẽ thành thục. Cá đẻ trứng vào giá thể là vật liệu cứng. Ống nhựa có đường kính 25 cm được cá ưa thích hơn tấm Fibrociment có kích thước 30 x 200 cm. Phạm Minh Thành và ctv. (2008) khẳng định sinh sản cá thát lát cườm nhân tạo hay bán nhân tạo đều đạt hiệu quả cao. Cá được nuôi vỗ tham gia sinh sản 3 lần trong năm với thời gian tái thành thục khoảng 37 ngày. Sức sinh sản tương đối của cá là 432 – 535 trứng/kg cá cái (720 – 783 trứng/con cá cái). Theo Kohinoor et al. (2012), sức sinh sản của cá thát lát cườm từ 5,65 – 14,33 trứng/g cá cái hay 8.238 – 18.569 trứng/con cá cái.

Xem thêm :  Giá chó akita 2020 và địa chỉ mua bán!

– Thức ăn cần thiết cho cá bột trong quá trình ương ở tuần đầu là động vật phiêu sinh. Từ tuần thứ hai thức ăn là trùn chỉ và Moina (Phạm Phú Hùng, 2007). Sarkar et al. (2008) cho rằng ương cá thát lát cườm trong giai lưới sử dụng thức ăn là trứng cá trôi Ấn Độ đã đẻ ra (< 8 mm), trùn chỉ sống, và trứng cá (thu trứng này bằng cách giải phẫu cá Puntius ticto). Sau 28 ngày, tỷ lệ sống của cá dao động từ 65 – 85%. Cá thát lát cườm được ương 30 ngày trong bể với 4 loại thức ăn là trùn chỉ, ấu trùng muỗi đỏ, phiêu sinh động vật và lăng quăng cho tỷ lệ sống của cá từ 80 – 100%; đối với thức ăn là phiêu sinh động vật và lăng quăng cho tỷ lệ sống của cá thát lát cườm là 100%.

– Hiện nay, có nhiều cơ sở sản xuất giống và ương thát lát cườm ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã cung cấp giống cá thát lát cườm phục vụ cho nhu cầu nuôi thương phẩm đối tượng có giá trị kinh tế cao này. Theo Chi cục Thủy sản Hậu Giang, năm 2006 lượng giống cá thát lát cườm trong tỉnh sản xuất được là 3,5 triệu con.

Đặc điểm sinh học cá Thát Lát Cườm, Nguồn: Bộ môn nước ngọt – Khoa Thủy sản ĐH Cần Thơ


Nuôi cá Thát Lát Cườm hiệu quả kinh tế cao


Kết nối và chia sẻ kinh nghiệm nuôi trồng thủy sản :
Chị Huỳnh Thị Thủy ở xã Ninh Hòa, huyện Hồng Dân là người nuôi cá thác lác rất thành công, đạt hiệu quả kinh tế cao.
nuoitom cathaclac nuoica nuoiluon thuysan thuysanbaclieu

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Review

Related Articles

Back to top button