Duyên khởi hay thập nhị nhân duyên
DUYÊN KHỞI
HAY
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
GS Nguyễn Vĩnh Thượng
Lời
tác giả
: Việc
biên soạn
chắc chắn
không
tránh khỏi
những chỗ sai sót,
chúng tôi
ước mong
được sự
lượng thứ
của các bậc
cao minh
. Những sự
sửa sai
và
bổ khuyết
của quý
vị
độc giả
để bài viết này được đầy đủ và
hoàn hảo
hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm
vinh hạnh
cho
chúng tôi
.
NVT
Hiểu
tư tưởng
Duyên Khởi
thì hiểu
Triết học
Phật giáo
. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời
giáo huấn
của
Đức Phật
.
Sau khi
đắc đạo
,
Đức Phật
đã
căn cứ vào
lẽ
sanh khởi
của dukkha (những điều không
hài lòng
,
căng thẳng
, khổ đau…) mà nói lên sự
liên hệ
nhân quả
của nó
gồm có
12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
Trong bài này tôi sẽ trình bày:
I.-Định nghĩa : thuyết
Duyên Khởi
hay
Thập nhị nhân duyên
.
II.-Nội dung của
Thập nhị nhân duyên
.
III.- A.-Bản Thể Luận trong thuyết
Duyên Khởi
.
– B.-Biện
chứng Pháp
trong thuyết
Duyên Khởi
.
IV.-Kết Luận.
I.-Định nghĩa: thuyết
Duyên Khởi
và
Thập nhị nhân duyên
.
Trong Kinh
Phật Tự
Thuyết (Udana,
Tiểu Bộ Kinh
I, tr. 291),
Đức Phật
nói:
“Vì cái này có, cái kia có. (imasmim sati idamhoti).
Vì cái này sinh, cái kia sinh. (imassuppàda idam uppajjati).
Vì cái này không, cái kia không. (imasmim asati idam na hoti).
Vì cái này diệt, cái kia diệt. (imassa nirodhà idam airujjhata”
Bốn câu trên cho thấy sự tương liên, tương tác trong sự
hiện hữu
liên tục
của mọi sự vật, và sự tương liên, tương tác trong sự hủy diệt của mọi sự vật. Căn cứ trên nguyên tắc này, thuyết
Duyên Khởi
được
thành lập
.
Thuyết
Duyên khởi
(Hán. 縁起, Sa. pratītyasamutpāda, Pa. paṭiccasamuppāda, cũng được gọi là
Nhân duyên
sinh (因縁生), và vì
bao gồm
12 thứ/ 12
thành phần
nên cũng có tên là
Thập nhị nhân duyên
(十二因縁, Sa. Dvādaśanidāna/ dvādaśāṅgapratītyasamutpāda).
Tiếng
duyên khởi
được dịch ra tiếng Anh với nhiều cụm từ khác nhau như sau: dependent origination, dependent arising, interdependent co-arising, conditioned arising, và conditioned genesis (genesis = căn nguyên). Còn cụm từ
Thập Nhị Nhân Duyên
được dịch là the Twelve Links of Interdependent arising).
Theo tiếng Sanskrit thì pratītyasamutpāda
gồm có
2 tiếng:
-pratītya có nghĩa là
tùy thuộc
(dependent), chữ này đã thấy
xuất hiện
trong Kinh văn Vedas và Upanishads. Trong Kinh Rig Veda, chữ này có nghĩa là
tùy thuộc
, là gốc rể. Cũng trong tiếng Sanskrit chữ tiếp đầu ngữ prati có nghĩa là đi tới,
diễn tiến
, tiếp cận.
-samutpāda có nghĩa là
phát khởi
(arising), khởi sự (originate),
hậu quả
(effect).
Do đó
ý tưởng
về
duyên khởi
(the idea of dependent origination) có lẽ đã có trước khi
Đức Phật
ra đời. Các nhà
nghiên cứu
triết học
Ấn độ
đã
nhận thấy
4 chi đầu tiên của dây chuyền có 12 chi như:
Vô minh
, Hành, Thức,
Danh sắc
đã có trong
lý thuyết
về
vũ trụ
của Brihadaranyaka Upanishad và các kinh văn Vedas cổ xưa hơn.
Nhân Duyên
quan niệm
rằng một vòng tròn
gồm có
12 chi hay 12 mắt xích dính
với nhau
như sợi dây chuyền. Cái mắt xích này là nhân gây ra quả là cái mắt xích kia nhờ duyên là các
điều kiện
thích hợp
– năng lực- xúc tác với nhân.
tiếp tục
mãi mãi
; chỉ khi nào có một cái bị diệt thì cái kia cũng bị diệt. Nói khác, sự
sanh khởi
phải có
điều kiện
, thuyết
duyên khởi
có thể
diễn tả
qua một tiến trình như sau:
Thuyết Duyên Khởi/ 12rằng một vòng tròn12 chi hay 12 mắt xích dínhnhư sợi dây chuyền. Cái mắt xích này là nhân gây ra quả là cái mắt xích kia nhờ duyên là các- năng lực- xúc tác với nhân. Rồi quả sẽ là nhân cho một tiến trình mới với sự trợ giúp của duyên mới để tạo thành một quả mới; và cứ như thế; chỉ khi nào có một cái bị diệt thì cái kia cũng bị diệt. Nói khác, sựphải có, thuyếtcó thểqua một tiến trình như sau:
Nhân – Duyên – Quả
Nhân chỉ
lý do
chính, duyên là
điều kiện
trợ giúp để sinh ra quả. Nhân là
nguyên nhân
tức là cái gì phát động ra ở mọi sự vật để gây ra một kết quả. Duyên là
duyên cớ
, là
điều kiện
, là
năng lực
, là sự
tương hợp
để giúp
nhân tạo
ra quả.
Một
thí dụ
đơn giản
: hột lúa (1) là cái quả của cây lúa (1) đã chín, hột lúa (2) sẽ là cái nhân của cây lúa (2) sắp mọc lên. Lúa muốn thành cây lúa, muốn có bông lúa thì phải nhờ có
điều kiện
: có
năng lượng
thích hợp
như đất, nước, không khí, ánh sáng, đây chính là duyên.
Trong vòng
tròn có 12 mắt xích thì mỗi mắt xích là
nguyên nhân
gây
phát khởi
mắt xích
kế tiếp
, và mỗi mắt xích
kế tiếp
sẽ
trở thành
một nhân mới, và cứ
tiếp diễn
liên tục
như thế, theo thuyết
duyên khởi
thì không có
nguyên nhân
đầu tiên, tất cả các
nguyên nhân
và kết quả cùng nhau
hiện hữu
, chúng có
liên hệ
hổ tương, tuỳ thuộc
với nhau
.
Theo
Đức Phật
thì
chúng ta
thấy có 2 loại quan hệ giữa các sự vật là:
– Quan hệ
đồng thời
:
“Cái này có thì cái kia có,
Cái này không thì cái kia không.”
có nghĩa là mọi sự vật đều tương liên, đều cùng nhau mà
hiện hữu
.
-Quan hệ dị thời:
“Cái này sinh nên cái kia sinh,
Cái này diệt nên cái kia diệt.”
có nghĩa là mọi sự vật
kế tiếp
liên tục
để
sinh khởi
, cái này sinh ra trước để làm
nhân sinh
ra cái kia khi có
điều kiện
thích hợp
; nếu một sự vật bị diệt thì sự vật
kế tiếp
cũng bị diệt.
Nói tóm, theo thuyết
duyên khởi
thì không có cái gì
hiện hữu
độc lập
với cái khác; mọi thứ đều
liên kết
tùy thuộc
lẫn nhau.
II.-Nội dung của thuyết
duyên khởi
II.-A. Mười hai loại
nhân duyên
trong thuyết
duyên khởi
:
Trong
Tương Ưng Bộ Kinh
II,
Đức Phật
đã
liệt kê
12 loại
nhân duyên
như sau:
Vô minh
, Hành, Thức,
Danh sắc
, Lục căn-
Lục trần
(
Lục nhập
), Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh,
Lão tử
.
12
nhân duyên
diễn tả
như cái bánh xe của đời sống/ bánh xe
luân hồi
(Sa. Bhavachakra, Av. The Wheel of Life). 12 mắt xích thường đượcnhư cái bánh xe của đời sống/ bánh xe(Sa. Bhavachakra, Av. The Wheel of Life).
Đức Phật
nói “thuyết Duyên Khởi” là một
chân lý
đã có sẳn từ trước, thuyết này nói về
bản tánh
của
hiện hữu
(the nature of existence), và Ngài đã
chứng ngộ
thuyết này, nên Ngài mới đem khai thị cho
đại chúng
.
Chúng ta
sẽ
tìm hiểu
mỗi thứ trong 12
Nhân Duyên
(The Twelve Links of Dependent Origination) như sau:
1.-Vô Minh ( 無明, Sa. avidyā, Pi. avijjā,Av.Ignorance) có nghĩa là sự thiếu
học hỏi
, thiếu
hiểu biết
hoặc có biết nhưng
mê muội
. Trong
triết học
Phật giáo
,
vô minh
thường để chỉ sự không thấu hiểu
Tứ Diệu Đế
, không hiểu
tính chất
của
đời sống
là dukkha [những điều không
hài lòng
(unsatisfactory),
tình trạng
căng thẳng
(stressful),
tình trạng
đau khổ
(painful)…].
Vô minh
cũng để chỉ sự không thấu hiểu về
vô ngã
(anatman, no-self) trong một
ý nghĩa
về
vô thường
(anicca, impermanence)
hiện hữu
trong mỗi
hữu thể
(an individual existence).
Con người
của
chúng ta
là sự
kết hợp
của
ngũ uẩn
. (xem thêm bài viết
Ngũ Uẩn
của NVT).
Vô minh
tạo
điều kiện
và sanh ra mắt xích
tiếp theo
là Hành …
2.-Hành (行, Sa. saṃskāra, Pa. saṅkhāra, Av. volitional formation) là hành động có
cố ý
hay nghiệp (karma). Hành động này có thể tốt, có thể xấu hay
trung tính
. vì
phát khởi
từ
vô minh
, nên các
ý tưởng
,
lời nói
và hành động gieo
hạt giống
cho nghiệp; hành động
cố ý
thì có trước khi có nghiệp và tạo nên nghiệp.
Hành tạo
điều kiện
và
phát khởi
ra mắt xích
tiếp theo
là Thức . . .
3.-Thức ( 識, Sa. vijñāna, Pa. viññāṇa, Av. conciousness): thông thường, thức được hiểu là những gì xảy ra khi một trong
lục căn
(six faculties: mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý – eye, ear, nose, tongue, body and mind)
tiếp xúc
với đối tượng của nó trong
lục trần
(six external phenomena: sắc, thanh, hương, vị, xúc và ý – visible form, sound, smell, taste, touch, ideas and thoughts). Trong trường phái
Duy thức học
(Yogacara school) còn có thêm 2 thức nữa là
mạt-na thức
và alaya thức.
Thức tạo
điều kiện
và
phát khởi
ra mắt xích
tiếp theo
là
Danh sắc
. . .
4.-Danh sắc (名色, Sa.= Pa. nāmarūpa,Av. name & form/ corporeality & mentality) là
toàn bộ
yếu tố
tâm lý
và
sinh lý
do sự
kết hợp
của
ngũ uẩn
mà tạo thành.
Có 4 uẩn thuộc về
tâm lý
là thọ, tưởng, hành, thức; và 1 uẩn thuộc về
vật lý
là
tứ đại
: đất, nước, gió và lửa.
Danh sắc
tạo
điều kiện
và phá sinh ra
Lục căn
–
Lục trần
(
Lục nhập
).
5.-Lục căn –
Lục trần
(gọi chung là
Lục nhập
) (六根, Sa. ṣaḍāyatana, Pi. saḷāyatana – 六塵, Av. six sense organs & their six objects):
-sáu căn
gồm có
5
giác quan
và khả năng
suy nghĩ
: nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân và ý.
-sáu trần
gồm có
: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp (
ý tưởng
).
Khi mỗi căn của 6 căn
tiếp xúc
với mỗi trần
tương ứng
trong 6 trần thì sinh ra 6 thức (六 識):
nhãn thức
,
nhĩ thức
,
tỷ thức
,
thiệt thức
,
thân thức
và
ý thức
.
Khi có sự gặp gỡ và giao thoa giữa căn, trần và thức thì phát sanh ra xúc.
6.-Xúc (觸, Sa. sparśa, Pa. phassa, Av. contact / sense impression): như đã trình bày ở trên, xúc là sự gặp gở, giao thoa giữa căn, trần và thức. Rồi xúc làm
điều kiện
phát sanh ra Thọ.
7.Thọ (受, Sa., Pa. vedanā, Av. feeling / sensation) là cảm nhận của
con người
mới sanh với
thế giới
bên ngoài, tức là các
phản ứng
tâm lý
phát sanh ra, thọ có 6 loại: mắt
tiếp xúc
với hình thể, tai
tiếp xúc
với
âm thanh
… Trải nghiệm của
cảm thọ
có khi
dễ chịu
,
lạc thú
(pleasurable), có khi khó chịu,
đau đớn
,
đau khổ
(painful, suffering), có khi
trung tính
(neutral); trải nghiệm này đưa đến sự
ưa thích
hoặc sư không
ưa thích
, ghét.
Thọ là
điều kiện
và làm phát sanh ra Ái.
8.Ái (愛, Sa. tṛṣṇā, Pa. taṇhā, Av. craving or attachment) là
lòng ham muốn
một đối tượng. Có 6 loại như:
sắc ái
, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái và pháp (
ý tưởng
) ái.
Ái là
điều kiện
và làm
phát khởi
ra Thủ.
9. Thủ (取, Sa., Pa. upādāna,Av. cling or grasping) là điều mà
cá nhân
mới chiếm lấy cho mình, đây là mức độ rất mạnh của lòng
tham muốn
. Thủ có 4 loại: 1.
Dục thủ
(sensual pleasures / desired objects), 2.
Kiến thủ
(mistaken views / bad views), 3.
Giới cấm thủ
(bad system of ethics and conduct), 4.Ngã luận thủ (views of self): tất cả
chúng ta
thường bám chặt vào
bản ngã
là do lòng
tham muốn
ở mức độ rất mạnh mẽ.
Thủ là
điều kiện
làm
phát khởi
Hữu.
10. Hữu (有, Sa., Pa. bhava, Av. process of becoming/ existence) là giai đoạn kéo dài từ lúc bắt đầu tạo nghiệp của kiếp này đến
cuộc đời
của
kiếp sau
. Hữu là
toàn thể
sự sống, sự
hiện hữu
hay
tồn tại
.
Hữu là
điều kiện
làm
phát khởi
Sinh.
11.Sinh ( 生, Sa., Pa. jāti, Av. birth) là sự
xuất hiện
của một
cá nhân
trong
thế giới
. Sanh là một vòng luân luư của
tái sanh
(rebirth).
Sanh dẩn tới Lão và Tử.
12.Lão & Tử (老死, Sa., Pa.. jarāmaraṇa,Av. aging and death): vì có sanh nên có già và chết.
Con người
là một
hữu thể
vị tử-
một sinh
vật đi đến chỗ chết, đây là một
chân lý
vĩnh cữu
:
con người
sanh ra, với
thời gian
trôi qua
, thì đến lúc già và đến lúc chết.
Dây chuyền 12
nhân duyên
đi đến mắc xích Lão – Tử, rồi do nghiệp của
đời sống
này lại tạo nên nghiệp của
đời sống
kế tiếp
,
Lão tử
là
điều kiện
làm
phát khởi
ra
vô minh
. Cứ
tiếp diễn
như vậy không ngừng để tạo nên bánh xe
luân hồi
. Khi chết,
nghiệp lực
của
luân hồi
(karmic force of samsara) sẽ đưa
chúng sanh
trở về
tái sanh
(rebirth). Để
chấm dứt
luân hồi
, theo lời
Đức Phật
dạy thì
chúng ta
phải thấu hiểu
Tứ Diệu Đế
để diệt
vô minh
mà đi đến chỗ
giải thoát
,
đạt được
niết-bàn.
II.-B.
Nhận xét
về thuyết
duyên khởi
:
1.-Thuyết
duyên khởi
quan niệm
động lực
của việc sanh thành là do
nguyên nhân
được
điều kiện
hóa để
thành quả
:
mọi vật
, mọi sự
phát khởi
là do những
điều kiện
cần và đủ mà chúng
liên kết
(inter-connection), cùng nhau
tùy thuộc
(inter-dependence), cùng nhau
sanh khởi
(inter-co-arising).
Theo
Đức Phật
thì nguyên lý
duyên khởi
là một
chân lý
đã có sẳn và
chi phối
tất cả
mọi vật
, mọi sự.
Đức Phật
xác định rằng dù cho Phật không ra đời thì nguyên lý này vẫn
hiện hữu
, Ngài chỉ ngộ được nguyên lý này rồi đem giảng lại cho các hàng
đệ tử
. Nhờ ngộ được
chân lý
này nên Ngài đã vượt
thoát khỏi
vòng
ràng buộc
của “12 nhân duyên”, và Ngài đã
được giải thoát
,
đạt được
niết-bàn.
Nguyên lý
duyên khởi
không chỉ là một
triết thuyết
cao siêu của
Phật giáo
mà còn là một
chân lý
mà
chúng ta
phải thấu hiểu để
giải thoát
khỏi dukkha (những sự không bằng lòng, sự
căng thẳng
,
đau đớn
, khổ sở . . .).
Như đã dẩn chứng ở trên,
Đức Phật
đã
tóm tắt
thuyết
duyên khởi
trong 4 câu:
Cái này có thì cái kia có,
Cái này sanh thì cái kia sanh.
Cái này không có thì cái kia không có,
Cái này diệt thì cái kia diệt.
(This existing, that exists,
This arising, that arises;
This not existing, that does not exist,
This ceasing, that ceases.)
Nói cách khác, thuyết
duyên khởi
cho
chúng ta
thấy rằng cuộc sống có một mối tương liên chằng chịt (inter-related),
liên kết
(inter-connected) giữa
con người
với
con người
, giũa
con người
với
thiên nhiên
. . ., và không có một sự, một vật nào đứng
độc lập
một mình
cả.
Mục đích
của
Đức Phật
dạy thuyết
duyên khởi
là để giúp
con người
cũng
được giải thoát
, cũng
đạt được
niết-bàn như Ngài. Theo tiếng
Ấn độ
thì nirvana (niết-bàn) có
nghĩa đen
là
dập tắt
ngọn lữa, ở đây có nghĩa là
dập tắt
3 điều
độc hại
là: tham, sân và si (greed, hatred and delusion or ignorance);
tam độc
này gây nên nghiệp và đẩy
chúng sanh
trở vào vòng
luân hồi
(samsara).
Đạt được
niết bàn
còn giúp cho một người sau khi đã
giác ngộ
và
sau khi chết
thì không còn
tái sanh
(rebirth), không bị cuốn vào vòng
luân hồi
.
Tư tưởng
duyên khởi
là một sợi chỉ triết lý xuyên suốt dòng
lịch sử
tư tưởng
Phật giáo
.
2.Thuyết
duyên khởi
đã được quảng diễn và phản ánh một cách khác nhau với mức độ khác nhau trong dòng
lịch sử
tư tưởng
Phật giáo
như sau:
2.a.-Thượng Tọa Bộ (Theravada) đã
áp dụng
thuyết
duyên khởi
để
giải thích
về sự
phát khởi
của dukkha ( những điều không
hài lòng
, sự
căng thẳng
,
đau khổ
. . .) và
hữu thể
(existence) thì luôn luôn
biến đổi
,
vô thường
, do đó
vô ngã
.
2.b.-Phật giáo Phát triển (the developmental Buddhism), thường gọi là Mahayana (
Đại thừa
) đã
áp dụng
thuyết
duyên khởi
để
giảng thuyết
về tính
tương đối
của
hữu thể
(existence) bằng những lý giải về tính
tương đối
của
học thuyết
duyên khởi
.
2.c.-Trường phái
Trung đạo
(Madhyamika school): Ngài Nagarjuna (
Long Thọ
, khoảng 150 – khoảng 250 CN) là một trong các
triết gia
Phật giáo
đứng hàng đầu sau khi
Đức Phật
Thích-ca qua đời, nhiều nhà
nghiên cứu
Phật học
đã tôn vinh Ngài là vị Phật thứ hai
trong lịch sử
Phật giáo
.
Long Thọ
đã đặt
trọng tâm
luận án
của ông vào
quan niệm
về
Tánh Không
(Sunyata, Av. Emptiness). Thuyết
Tánh Không
đã
căn cứ vào
hai
học thuyết
chính của
Phật giáo
là thuyết
vô ngã
(anatman, Av. non-self) và thuyết
duyên khởi
(pratitya-samutpata, Av. dependent origination),
Long Thọ
đã dựa hai
học thuyết
này để làm luận cứ
bác bỏ
các
học thuyết
siêu hình ở trong
thời đại
của ông.
Theo
Long Thọ
,
Đức Phật
đã giảng trong kinh văn rằng không chỉ
chúng sanh
(sentient beings) có thuộc tính là
vô ngã
mà tất cả các vật, các
hiện tượng
(dhammas, Av. phenomena) đều
vô ngã
, đều không có
tự tánh
. Như vậy, tất cả (
chúng sanh
+
hiện tượng
) là cái Không (Emptiness) của một
hiện hữu
.
Hiện hữu
không có tính
độc lập
, bởi vì tất cả mọi sự,
mọi vật
đều
phát khởi
một cách tuỳ thuộc lẫn nhau: không phải bởi chính
năng lực
của nó, mà bởi
tùy thuộc
vào `điều kiện, vào duyên (depending on conditions) dẩn tới sự
hiện hữu
của chúng. Như vậy chúng không phải là một
hữu thể
(being) mà là cái không (emptiness).
2.d.- Trường phái
Duy thức học
(Yogacara school) xác minh rằng chỉ sự
hiểu biết
chân chính
về thuyết
duyên khởi
thì mới
vượt qua
những
sai lầm
khi
nhận thức
rằng: cái gì không
hiện hữu
cho
hữu thể
(existent), và cái gì
hiện hữu
cho
vô thể
(non-existent).
2.e.-Kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa (the Prajnaparamita Sutra)
nhấn mạnh
rằng thuyết
duyên khởi
đã
cho biết
tất cả mọi sự ,
mọi vật
đều
liên kết
tùy thuộc
nhau (inter-dependence).
3.Thuyết
duyên khởi
đã
ảnh hưởng
trong văn thơ từ xưa
đến nay
rất nhiều. Tôi xin trích dẩn hai
trường hợp
sau đây:
– Trong thơ:
Thiền sư
Đạo Hạnh
( – 1115) vào thời Lý đã có một
nhận xét
rất sâu sắc:
Phiên âm Việt Hán:
“Tác hữu
trần sa
hữu,
Vị không
nhất thiết không
.
Hữu không
như
thủy nguyệt
,
Vật trước
hữu không
không“
(Hữu – Không)
Nguyên tác chữ Hán:
作有塵沙有,
為空一切空。
有空如水月,
勿著有空空。
(有空 )
Dịch thơ:
“Có thì có tự
mảy may
,
Không thì cả
thế gian
này cũng không.
Kìa xem bóng nguyệt dòng sông,
Ai hay không có, có không thế nào“.
(Có-Không)
(Thích Mật Thể dịch)
Dịch nghĩa:
Nếu nói “có“ thì nhỏ nhoi như
hạt bụi
cũng có.
Nếu nói “không“ thì cả
thế gian
này cũng không.
“Có“ và “không“ như ánh trăng ở
dưới nước
, chỉ là cái bóng,
Đừng chấp vào cái “có“, cũng đừng chấp vào cái “không“.
– Trong văn:
Tác giả
Neadle Donal Walsch (Mỹ, 1943- ) đã viết:
“. . . the Ultimate Truth: nothing exists in the universe that is separate from anything else. Everything is intrinsically connected, irrevocably interdependent, interactive, interwoven into the fabric of all of life“.
(Source: internet: Quotes from Conversations with God, Vol. 2, posted in Oct. 2016)
(…
Chân lý
tối thượng
là: không có sự vật gì
hiện hữu
trong
vũ trụ
mà tách rời khỏi bất cứ vật nào. Mỗi sự, mỗi vật được
liên kết
về
bản chất
, được
liên kết
-tùy thuộc và không thể bị hủy bỏ, tương tác, tương liên đan dệt trong cách
cấu tạo
của tất cả mọi sự vật của
cuộc đời
.)
Một cách tổng quát, thuyết
duyên khởi
có thể được vận dụng trong
sinh hoạt
hằng ngày
, trong
sinh hoạt
xã hội
, trong
sinh hoạt
chính trị . . .
III.-Bản thể luận và
Biện chứng
pháp trong thuyết
duyên khởi
:
III. A.-Bản thể luận trong thuyết
duyên khởi
:
Bản thể
luận là một phàm trù của
triết học
Tây phương
,
chúng ta
sẽ
tìm hiểu
về
Bản thể
luận, rồi sau đó với cái lăng kính “bản thể luận“
chúng ta
sẽ
tìm hiểu
thuyết
duyên khởi
.
Bản thể
luận là một ngành của
Siêu hình học
.
Siêu hình học
( Metaphysics) là tiếng có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ xưa là meta-physica ( meta= bên kia, physica =
vật lý
, vật
hữu hình
).
Siêu hình học
có
mục đích
khảo sát
bản chất
căn bản
của sự
hiện hữu
, sự
tồn tại
(being).
Siêu hình học
là một trong những
tác phẩm
triết học
của Aristotle (Hy lạp, 384 tr.C.N).
Siêu hình học
gồm có
hai ngành chính là:
a.
Vũ trụ luận
(Cosmology) là tiếng có nguồn gốc từ Hy lạp là Kosmos =
thế giới
, logia=
nghiên cứu
về.
Vũ trụ luận
là khoa
nghiên cứu
về
thế giới
,
vũ trụ
để
tìm hiểu
nguồn gốc, sự tiến hoá, thay đổi
trải qua
nhiều
thế hệ
, và số phận của
vũ trụ
. Việc khảo cứu về
vũ trụ
đã có một
lịch sử
lâu dài
liên quan đến
khoa học,
triết học
, thuyết
bí truyền
của một nhóm người, và của một
tôn giáo
.
Vũ trụ luận
nghiên cứu
các
vấn đề
chính yếu
sau đây: –
Vũ trụ
vạn vật
phát sinh từ đâu.-Tính chất của
vũ trụ
vạn vật
như thế nào: tĩnh hay động,
thường hằng
hay
vô thường
, luôn luôn
chuyển biến
.
Vũ trụ
vạn vật
có khởi thuỷ, có
chấm dứt
không.
b.
Bản thể
luận ( Ontology) là tiếng có nguồn gốc từ Hy Lạp là ontos = sự
hiện hữu
, sự
tồn tại
(being); logia =
nghiên cứu
về.
Bản thể
luận là khoa
nghiên cứu
về sự
hiện hữu
(the study of being), về
hữu thể
(existence).
Bản thể
luận khảo sát sự
hiện hữu
như là chính nó đang
hiện hữu
, tức là
bản tính
của
hữu thể
(the nature of existence),
thực thể
hiện hữu
có thể chia ra thành các nhóm được gọi là các “phạm trù” của
hữu thể
(the categories of existence) và những điều
liên hệ
.
Để
hiểu rõ
,
chúng ta
liệt kê
các câu hỏi, các chất vấn mà
Bản thể
luận có thể đặt ra khi khảo sát về sự
hiện hữu
, về
hữu thể
như:
-Cái gì là nguyên lý cơ bản ẩn tàng trong sự hiện hữu?
-Cái gì khác nhau giữa
thực tại
chân thật
(really existing) và chỉ là sự biểu hiện để
hiện hữu
(only appearing to exist)?
-Thế giới bên ngoài có thực sự
hiện hữu
không?
-Tha nhân có thật sự
hiện hữu
không?
-Thượng đế (God) có thật sự
hiện hữu
không?
-Tôi
hiện hữu
như thế nào? hay Tôi từ đâu đến và tôi sẽ đi về đâu? hay Vì
mục đích
gì mà tôi
hiện hữu
ở đây?
Như vậy trong
tư tưởng
Tây phương
,
Bản thể
luận chỉ
nghiên cứu
về
hữu thể
(existence) và đã
đánh giá
tích cực
cho
hữu thể
,
dĩ nhiên
đã có
nhận định
tiêu cực
cho
vô thể
(non-existence). Trong
tư tưởng
Đông phương
thì “vô thể/ phi hiện hữu” (non-existing) là nền tảng cơ bản của
Bản thể
luận; như
quan niệm
Vô (non-being) của
Lão giáo
, và
quan niệm
Tánh không
(Sunyata, Emptiness) của
Long Thọ
/ Nagarjuna (khoảng 150 – khoảng 250 CN).
(Xem thêm bài viết “Phật
giáo như
là một
triết học
hay như là một tôn giáo“ của NVT)
Theo các
Kinh điển
Phật giáo
, khi
Đức Phật
Thích-ca còn
tại thế
, Ngài luôn giữ
im lặng
khi có các
đệ tử
hỏi về những câu hỏi có
tính cách
siêu hình như: –
Vũ trụ
này thì
vĩnh cữu
hay không vĩnh cữu? – Thân xác của
con người
và
bản ngã
là một hay là hai phần khác nhau? . . .
Đức Phật
đã
trả lời
với các
đệ tử
rằng những câu hỏi đó thì chẳng
ích lợi
gì cả, và có thể khiến cho các
đệ tử
xa rời
mục tiêu
của
thức tỉnh
, của
giác ngộ
. Chỉ có những
thảo luận
và
tư tưởng
có
giá trị
thực dụng
để
giải phóng
con người
khỏi dukkha là quan trọng hơn cả.
Đức Phật
thường dùng
hai
câu chuyện
ngụ ngôn sau đây để làm
sáng tỏ
quan điểm
của Ngài:
1.-Chuyện ngụ ngôn về chiếc bè:
Chánh Pháp
(Dharma) như một chiếc bè để đi qua sông,
Chánh Pháp
chỉ là một
phương tiện
thực dụng
để đạt Nirvana (Niết-bàn).
Chánh Pháp
có
mục đích
là giúp
hành giả
đi qua sông/ tức để giải thoát/ chứ không phải cứ bám vào
Chánh Pháp
. Khi
con người
đã qua sông thì
con người
sẽ rời bỏ chiếc bè.
Tương tự
khi đã
đắc đạo
, đã
giải thoát
thì phải rời xa
Chánh Pháp
.
2.-Chuyện ngụ ngôn về một mũi tên có tẩm thuốc độc:
Trong cách
cấp cứu
của y tế trong
trường hợp
khẩn cấp này thì vị Y sĩ không
cần phải
tìm coi ai bắn mũi tên này ? (tương đương với câu hỏi có
tính cách
siêu hình học
) vì câu hỏi này không có gì
cấp thiết
mà điều khẩn cấp là việc giựt mũi tên ra khỏi người này và
tìm cách
chữa vết thương do mũi tên gây ra (như
tìm cách
diệt dukkha). Qua
ý nghĩa
của ngụ ngôn này, nhiều nhà
nghiên cứu
Phật học
và các
đệ tử
Phật đã tôn vinh Ngài như là “vị Y sĩ vĩ đại” bởi vì
mục đích
của Ngài là chữa trị những điều đem đến khổ đau trước nhất chứ không phải để
trả lời
, để
truy cứu
những câu hỏi siêu hình.
Đức Phật
đã không có
thích thú
hoặc tránh xa những
vấn đề
siêu hình (metaphysics), nên
chúng ta
có thể
kết luận
rằng Ngài cũng không
thích thú
và tránh xa việc
thảo luận
về
Bản thể
luận (ontology); Ngài không đề cập tới những
nguyên nhân
đầu tiên.
Ở
Đông phương
cũng như ở
Tây phương
, nhiều
triết gia
đã
trả lời
các câu hỏi về nguồn gốc của
vũ trụ
cũng như
bản tính
của
vũ trụ
bằng những câu
trả lời
đã được nhuận sắc
tùy theo
những điều mà
triết gia
này thích hoặc theo những điều mà
triết gia
không thích.
Triết gia
Morris Lazerowitz (Mỹ, 1907 – 1987) đã
phê bình
môn
siêu hình học
như sau:
“Like a dream, a metaphysical theory is a production of the unconscious and both sense and motivation. We enjoy or repelled by it; it gives us pleasure or pain, a feeling of security or one of danger; but its meaning is hidden from us”.
(M. L., The structure of Metaphysics, London: Routledge and Kegan Paul, 1955, p. 26; quoted by David J. Kalupahana, Buddhist Philosophy: A historical Analysis, Honolulu: University of Hawaii Press, p. 157)
(Như một giấc mơ, một
học thuyết
siêu hình là một sản phẩm của
vô thức
, và của cả
ý nghĩa
và
động lực
.
Chúng ta
thưởng thức
môn
siêu hình học
hay bị nó đẩy lùi đi xa, nó mang lại cho
chúng ta
niềm vui hay sự
đau đớn
, nó đem lại một
cảm giác
an toàn
hoặc một
cảm giác
bị nguy hiểm; nhưng
ý nghĩa
của nó thì bị ẩn dấu khỏi
chúng ta
.)
Tuy nhiên
, hiện nay rất nhiều nhà
nghiên cứu
Phật học
Tây phương
đã lấy lăng kính “Bản thể luận” của
triết học
Tây phương
mà
tìm hiểu
về thuyết
duyên khởi
. Trong đường hướng này,
chúng tôi
tìm hiểu
Bản thể
luận trong thuyết
duyên khởi
.
Thuyết
duyên khởi
đã có một nguyên tắc
căn bản
của
Bản thể
luận khi thuyết này
giải thích
bản tính
và những sự
liên hệ
của
hiện hữu
(being); sự
sinh thành
,
biến chuyển
;
hữu thể
và
thực tại
tối hậu
. Thuyết
duyên khởi
nhấn mạnh
mọi vật
đều
tùy thuộc
lẫn nhau, không có sự vật nào
độc lập
cả chỉ trừ có Nirvana (Niết-bàn). Thuyết
duyên khởi
tin tưởng
mọi sự vật đều do
nhân duyên
(causal conditioning), nhân (causality) là nền tảng
căn bản
của
Bản thể
luận.
Phật giáo
không đưa ra một “nguyên nhân đầu tiên” (first cause) mà từ đó các
hữu thể
sinh khởi
, không nói đến một
Thượng đế
sáng tạo
(creator God), và cũng không nói đến
quan niệm
của ”Vệ-đà” (Vedic concept), về
Phạm Thiên
(Brahman, Av. Universal self). Hơn nữa thuyết
duyên khởi
cho rằng mọi sự vật luôn
biến đổi
không ngừng, nhưng có một điều không
biến đổi
,
vĩnh cữu
là tính
liên tục
của sự
biến đổi
. Như vậy, thuyết
duyên khởi
đã
áp dụng
nguyên tắc của
Bản thể
luận chẳng những để
giải thích
về “bản tính của hữu thể”, về sự
quan sát
thực nghiệm các
hiện tượng
mà còn
giải thích
về
bản tính
và sự
hiện hữu
của
đời sống
.
Nói tóm,
Đức Phật
đã
nhấn mạnh
sự thấu hiểu
bản tính
của sự vật như là chính nó đang
hiện hữu
, hiểu thấu những gì
hữu thể
đã xảy ra trong
quá khứ
và những gì sẽ xảy ra trong tương lai.
Đức Phật
nói về căn nguyên (genesis) của
hữu thể
: cái này có vì cái kia có; mọi sự vật đều tuỳ nhân, đều
tùy duyên
của cái khác mà phát sanh ra. Bạn là
căn duyên
của người khác và của
hoàn cảnh
. Người khác và
hoàn cảnh
là
căn duyên
của bạn.
III.B.-Biện
chứng pháp
trong thuyết
duyên khởi
:
1.-
Biện chứng
pháp là một loại Luận lý học
hình thức
.
Chúng tôi
sẽ
tìm hiểu
Biện chứng
pháp là gì? và
tìm hiểu
vài phép
biện chứng
chính yếu
, rồi
tìm hiểu
phép
biện chứng
trong thuyết
duyên khởi
.
Biện chứng
pháp (Av. Dialectic/ Dialectics, Pv. Dialectique) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là dialektike là một
phương pháp
giúp
chúng ta
khám phá
chân lý
của
ý tưởng
bằng cách
thảo luận
,
so sánh
những
ý tưởng
đối lập
nhau.
Theo
chiết tự
, dialektike
đồng nghĩa với
dialegein gồm 2 chữ: dia có nghĩa là cả hai
xuyên qua
, legein là nói, là
bàn luận
; như vậy
biện chứng
pháp là
con đường
mà trong đó có 2
ý tưởng
khác nhau, hoặc cùng
hiện hữu
một lúc, hoặc cùng
ảnh hưởng
lẫn nhau. Nói cách khác,
mục đích
của
Biện chứng
pháp/ Phép
biện chứng
(dialectic method) là tìm
giải đáp
cho những điều bất đồng qua những
bàn luận
nghiêm túc để tìm
chân lý
.
Dialektike (
Biện chứng
pháp) có
liên hệ
với sự
trao đổi
, với sự
biện luận
(argumentation) giữa 2 phe, nhưng không
đồng nghĩa với
đối thoại (dialogue).
Có nhiều
phương pháp
biện chứng
khác nhau
trong lịch sử
triết học
Tây phương
và
Đông phương
như Phép
biện chứng
của Socrates (Socratic method, ông là người Greek, sống khoảng 470 tr. CN – khoảng 399 tr. CN), của
Ấn độ giáo
( Hinduism, phát triển khoảng 500 tr. CN – 300 tr. CN), của
Phật giáo
(phát triển khoảng thế kỷ thứ 6 – thế kỷ thứ 4 tr. CN), của thời Trung cổ ( Median age, từ thế kỷ thứ 5 – thế kỷ thứ 15 CN), của Hégel (Hegelian dialectics, ông là người Đức, 1770-1831), của Marxist (Marxist method, Karl Marx là người Đức, 1818-1883), của Talmud (Talmudic method, Talmud là kinh văn của các
Giáo sĩ
Do-thái giáo (Rabbinic, phát sanh khoảng năm 500 CN), của phái Tân
Chính thống
(Neo-Orthodoxy,
phát khởi
sau Đệ
nhất thế
chiến ở Âu châu)…
Như đã trình bày,
mục đích
của
phương pháp
biện chứng
nhằm để
phân giải
những bất đồng qua cuộc
thảo luận
thuần lý
để đi tới
mục đích
tối hậu
là
tìm ra
chân lý
. Một trong các cách này có
phương pháp
của Socrate. Ông nói rằng trước hết chúng đưa ra một
giả thuyết
cho sẳn (given hypothesis) rồi dẩn đến một điều
mâu thuẫn
(contradiction) với
giả thuyết
này,
chúng ta
chứng minh
và
lý luận
rằng điều
mâu thuẫn
này đúng, như vậy có nghĩa là
giả thuyết
có những điều
hạn chế
,
nếu không
nói là sai, và không
hoàn hảo
để
rút lại
cho biết
đâu là
chân lý
. Hoặc ngược lại, nếu điều
mâu thuẫn
sai thì
giả thuyết
được coi là đúng.
Một
phương pháp
biện chứng
khác
gồm có
3 nhịp:
1.Chính đề (Thesis) là một
ý tưởng
, một
nhận thức
hay
xu hướng
, hay một
lý thuyết
đầu tiên. Chính đề
thường có
giá trị
hạn chế
hay có khiếm khuyết, nên tạo ra một
ý tưởng
…
đối lập
.
2.Phản đề (Antithesis) là một
ý tưởng
, một
nhận thức
hay
xu hướng
hay
lý thuyết
chống lại
chính đề. Cuộc
tranh đấu
,
thảo luận
giữa chính đề và phản đề diễn ra để
đạt được
một
giải pháp
vượt qua
những
giá trị
hạn chế
của chính đề và phản đề;
giải pháp
này là những cái hay, những
tinh hoa
của cả hai, và tạo nên Tổng hợp đề.
3.Tổng hợp đề (Synthesis) là
kết hợp
các
ưu điểm
, và phủ nhận các
hạn chế
của chính và phản đề.
Một khi
đạt được
Tổng hợp đề thì Tổng hợp đề có thể
trở thành
bước thứ nhất (Chính đề) trong 3 nhịp
biện chứng
mới khác, và cứ
tiếp diễn
theo một trình
tự như
lúc trước. Nếu như Tổng hợp đề cũng không được
thỏa mãn
, không có tánh
thuyết phục
thì Tổng hợp đề sẽ
trở thành
một Chính đề mới, và sẽ tạo nên một phản đề mới . . .Sau đó 3 nhịp của
biện chứng
sẽ diễn ra ở một
trình độ
cao hơn.
Nhiều nhà
biện chứng
học còn
diễn tả
3 nhịp
biện chứng
bằng những
thuật ngữ
khác như:
1. Chính đề (thesis) vẫn được giữ nguyên.
2.Phản đề được thay thế bằng
thuật ngữ
Phủ định/Hủy thể của Chính đề (negation of thesis).
3.Tổng hợp đề được thay thế bằng Phủ định của phủ định hay Hủy thể của hủy thể (negation of negation), tức là phủ định lại cái phủ định của Chính đề.
Công thức
:
Chính đề – Phản đề – Tổng hợp đề
Vài ví dụ
đơn giản
:
-Ví dụ 1: con gà (1) sinh ra trứng gà (1), rồi trứng gà (1) nở ra con gà (2), rồi con gà (2) sinh ra trứng gà (2)…
Phân tích: trứng gà (1) là phủ định của con gà (1).
con gà (2) là phủ định của trứng gà (1)
– Ví dụ 2: hột lúa (1) sanh cây lúa (1), rồi cây lúa (1) sanh ra hột lúa (2), rồi hột lúa (2) sanh ra cây lúa (2) . . .
Phân tích: tương tợ như
trường hợp
con gà và trứng gà.
Điều nên
lưu ý
là con gà (2) và trứng gà (2) cũng như hột lúa (2) và cây lúa (2) thì không giống với lần thứ nhất. Bởi vì
mọi vật
đều thay đổi, đều phát triển theo một vòng xoắn ốc chứ không theo 1 vòng tròn tức
trở về
vị trí
cũ.
Theo Hegel thì
công thức
3 nhịp
biện chứng
: thesis – antithesis – synthesis
không giải
thích được tại sao mà thesis đòi hỏi phải có antithesis, cho nên ông đã dùng một
phương pháp
biện chứng
có 3
giá trị
luận lý là:
Abstract – Negative – Concrete
– Abstract là tiền đề
sơ khởi
có tính trừ tượng, có
thể không
hoàn hảo
.
– Negative là phản đề, phủ định lại tiền đề.
-Concrete là một tổng hợp đề có
giá trị
chắc chắn
, có
giá trị
tuyệt đối
vượt qua
bước phủ định.
Phương pháp
này được gọi là
Biện chứng
pháp của Hegel (Hegelian Dialectics).
Biện chứng
pháp của Hegel đã
căn cứ vào
4
quan niệm
như sau:
1.
Mọi vật
đều hữu hạn, đều
hiện hữu
trong một cái khung
thời gian
.
2.
Mọi vật
đều
bao gồm
những
mâu thuẫn
(contradictions) nội tại hay những
thế lực
đối nghịch (opposing forces) hay khuynh hướng
đối lập
(opposing tendencies), hoặc
lợi ích
đối lập
(opposing interests).
3.Những sự thay đổi
dần dần
sẽ dẩn đến cuộc khủng hoảng, đến bước ngoặt một khi có
một thế
lực
vượt qua
thế lực
đối nghịch. Nói khác, khi số lượng thay đổi (quantitative change) sẽ đưa đến sự thay đổi chất lượng (qualitative change).
4. Sự thay đổi thì
đi theo
một vòng xoắn ốc (helical) chứ không theo một vòng tròn, vì sự thay đổi không bao giờ
trở lại
cùng một
vị trí
.
Phép
biện chứng
của Heraclitus (Greek, Herakleitos; Pháp, Héraclite, khoảng 535 tr. CN – 475 tr. CN) thì
dựa vào
tư tưởng
triết học
của ông là tìm sự thống nhất các mặt
đối lập
(unity of opposites). Ông chủ trương rằng mọi sự vật đều thay đổi
liên tục
, đó là kết quả của những sự
xung đột
và
đối lập
nội tại trong sự vật. Héraclite cũng đã ví
mọi vật
đều
biến chuyển
như một dòng nước qua câu nói thời danh:
You can not step twice into the same river, for fresh waters are ever flowing in upon you. The sun is new every day.
(Bertrand Russel, History of Western philosophy, London: George Allen & Unwin, 1979, p. 63)
(Bạn không thể nào bước vào hai lần trong cùng một dòng sông, vì nước mát luôn luôn
trôi chảy
qua người bạn. Mỗi ngày
mặt trời
đều đổi mới.)
Nước của dòng sông luôn luôn chảy, luôn luôn trôi đi mãi. Nhưng có cái không thay đổi là chính dòng sông, nhờ đó mà
chúng ta
xác định được dòng sông.
Quan niệm
này
tương tự
với
quan niệm
vô thường
của
Đức Phật
.
Chúng tôi
đã tóm lược các
phương pháp
biện chứng
lớn để
độc giả
có dịp
so sánh
với
Biện chứng
pháp trong thuyết
duyên khởi
,
chúng ta
có thể gọi là
Duyên khởi pháp
.
Duyên khởi pháp
cũng đưa ra 3 nhịp:
Nhân – Duyên – Quả
Nguyên lý Nhân-Duyên-Quả
chúng tôi
đã trình bày ở trên.
Duyên khởi pháp
của
Đức Phật
thì
sâu xa
hơn các
phương pháp
trên. Thật vậy
Duyên khởi pháp
nhằm
đi tìm chân lý
như là nó có thực (the truth it really is).
Duyên khởi pháp
cho thấy
mọi vật
thì
sinh sinh
diệt diệt,
biến hóa
không ngừng, mọi sự,
mọi vật
đều quay lăng như bánh xe: đó là cái
lý vô thường
. Nhưng trong cái
vô thường
này , có một
chân lý
thường hằng
bất biến
đó là luật Nhân-Duyên-Quả của
Duyên Khởi pháp
.
IV.-Kết Luận
He who sees the Paticcasamuppada sees the Dhamma.
He who sees the Dhamma sees the Paticcasauppada.
(Majjhima Nikaya 1. 190, translated by David Williams)
(Ai mà hiểu được thuyết
duyên khởi
tức là hiểu được
Phật Pháp
.
Ai mà hiểu được
Phật Pháp
tức là hiểu được thuyết
duyên khởi
)
Thấu hiểu thuyết
duyên khởi
là điều
cốt lõi
để thấu hiểu
triết học
Phật giáo
, bởi vì lời
giáo huấn
về thuyết
duyên khởi
có
liên hệ
với nhiều điều
giáo huấn
khác kể cả thuyết về nghiệp (karma) và
tái sanh
(rebirth).
Toronto, 18 January 2017.
Nguyễn Vĩnh Thượng
Cựu Giáo sư
Triết học
(1969-1975) tại các trường Petrus Ký, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn
An Ninh
, Cần Đước và trường Sư Phạm Saigon.
**
Tài liệu
tham khảo
chính yếu
:
-Bhikkhu Bodhi, edited & introduced, In the Buddha’s Words: An Anthology of Discourses from the Pali Canon, Foreword by The Dalai Lama, Boston: Wisdom Publications, 2005.
-Gombrich, Richard, Theravada Buddhism, London: Routledge, First published 1988, Reprinted 1991, 1994, 1995.
-Kalupahana, David J., Buddhist Philosophy: A Historical Analysis, Honolulu: University of Hawai Press, 1976.
-Kimura Taiken,
Nguyên Thủy
Phật giáo
Tư Tưởng
Luận; nguyên văn chữ Nhật, Hán dịch: Âu Dương Hãn Tồn, Việt dịch: Thích Quảng Độ, Saigon: ĐHVH, 1969. Chùa Khánh Anh ở Paris in lại,
Phật học Viện
Quốc tế ở California phát hành.
-Murti, T.R.V., The Central Philosophy of Buddhism, London: Unwin Paperbacks, First publishised in 1955, Reprinted in 1987.
-Narada, Mahathera, The Buddha and his Teachings, Kandy (Sri Lanka): Buddhist Publication Society, First enlarged edition: 1964, Second revised and enlarged edition: 1973.
-Nguyễn Vĩnh Thượng, Luận Lý Học (Sách giáo khoa lớp 12 ABCD), Saigon:
Hiện Đại
phát hành, 1972.
-Tâm Diệu,
Quan niệm
giải thoát
trong
Phật giáo
và Bà-la-môn giáo (bài biên khảo), Hoa Kỳ: Website Thư Viện
Hoa Sen
, 2011.
-Thích Chơn Thiện,
Phật học
Khái luận, California:
Thanh Văn
, 1992.
-Thích Quảng Liên, Sử cương
Triết học
Ấn độ
, Saigon:
tác giả
x.b., bài cours cho sinh viên chứng chỉ
Triết học
Ấn độ
, ĐHVK Saigon, 1965.
-Thích Thanh Kiểm, Lược sử
Phật giáo
Ấn độ
, Saigon: Lê Thanh thư xã, 1963.
-Thích Thiện Hoa,
Phật học
Phổ thông
từ khóa I đến khóa XII (gồm 12 quyển), đã xuất bản ở Saigon từ 1955 – 1964. Tái bản:
Phật Học Viện
Quốc tế, Sepulveda, CA, USA, 1982.
-Trần Thái Đỉnh,
Biện chứng
pháp là gì?, Saigon: Hướng Mới, 1969.
-Williams, Paul, Mahayana Buddhism, London: Routledge, First published 1989, Reprinted 1991, 1993.
Top 12 thập nhị thuẫn – Tấm Khiên Của Hoàng Đế Zeref
Cảm ơn anh em đã xem video ủng hộ Ma Zương Bi Huỳnh nhé, nhớ Like \u0026 Subscribe nhiaaa!
? Shop Mua Áo/Phụ Kiện Anime: https://shopee.vn/bihuynhshop
➤ Fanpage Bi Huỳnh: https://www.facebook.com/bihuynhsenpai
➤ Facebook Cá Nhân: https://www.facebook.com/bihuynh199x
➤ Group Anime: http://bit.ly/2DD71ld
➤ Ủng hộ kênh phụ của mình: http://bit.ly/2DcojVR
Cảm ơn anh em đã xem video và ủng hộ kênh Bi Huỳnh Senpai !!
? ► Fairy Tail by “God” Hiro Mashima and A1 Pictures \u0026 Satelight
► これはファンで作ったワンピースビデオです。ビデオにある画像は Hiro Mashima 先生 と A1 Picturesさんのです。著作権に関してはbihuynh199x@gmail.com に連絡してください。何か問題があったら、私はすぐ削除します。ありがとうございます
► I do not own anything here, I do not own the song or any of the anime used in the video.
► Contact Me: bihuynh199x@gmail.com
© Bi Huỳnh Senpai Youtube Partner