Tổng Hợp

Chân lý nghệ thuật và chân lý cuộc sống

Chân lý nghệ thuật là một khái niệm mỹ học có mục đích hướng nghệ sỹ và bạn đọc đến sự nhận thức về nghệ thuật một cách đúng đắn nhất. Đây chính là vấn đề cơ bản liên quan đến phản ánh luận (miêu tả giống hay không giống so với hiện thực), đến nhận thức luận (miêu tả cái gì, miêu tả như thế nào…), đến vai trò của cá tính sáng tạo…

Từ thời cổ đại cho đến tận thế kỷ XVIII, thuyết bắt chước của Arixtốt vẫn thống trị quan niệm về bản chất nghệ thuật, cho rằng để đạt tới chân lý nghệ thuật chỉ có cách kết hợp sự giống thực cùng với sự biểu đạt của những ý niệm phổ quát về vũ trụ, về thiên nhiên, về lý trí, tình cảm…Ở thời Phục hưng, chân lý nghệ thuật được khẳng định là sự thống nhất của cái đẹp và cái thật. Vì thế mỹ học Phục hưng quan niệm nghệ sỹ phải như tấm gương nhưng không phải là sự sao chép nguyên si mà phải có suy nghĩ, cân nhắc, lựa chọn, phân tích.

Người nghệ sỹ phải dựa vào những tri thức về bản chất, bản tính của sự vật. Điều này lý giải tại sao có họa sỹ thiên tài lại cũng là bác sỹ phẫu thuật. Thậm chí có khán/độc giả nhìn vào bức tranh khỏa thân thời ấy còn thấy cả những mạch máu như đang phập phồng.

Chưa bàn đến sự tiến bộ và hạn chế nghệ thuật của chủ nghĩa cổ điển (đỉnh cao của mỹ học Phục hưng) nhưng phải khẳng định nó là bài học cho hôm nay: nghệ thuật trước hết là sự tôn trọng ở mức cao nhất đối tượng miêu tả; nghệ thuật là sự cực kỳ công phu và thực sự là địa hạt của tài năng và kiên nhẫn. Ngoài những phép tắc cơ bản thì nhà họa sỹ muốn vẽ người phải học giải phẫu sinh lý người, muốn vẽ phong cảnh phải hiểu cặn kẽ thế giới sinh vật…Cho nên rất có lý, ngày nay có bức tranh của các họa sỹ Phục hưng bán đấu giá, có khi lên tới hàng trăm triệu Mỹ kim.

Tác phẩm “Người đàn bà và con chồn” của danh họa Leonardo da Vinci, đỉnh cao nghệ thuật thời Phục hưng. 

Đến thế kỷ XVIII, mỹ học Khai sáng lên tiếng phủ nhận mỹ học Phục hưng và cho rằng sự thật của tự nhiên là cơ sở cho tính giống thực ở nghệ thuật. Sang thế kỷ XIX lại một bước tiến mới của mỹ học khi xác lập nghệ thuật như là những hình thức hoạt động tinh thần – thực tiễn và là những hình thức phản ánh thực tại đặc thù. Từ đó đến nay, chân lý nghệ thuật được nhìn nhận trong mối quan hệ mật thiết với tư tưởng, quan niệm, vốn sống, tài năng người nghệ sỹ.

Xem thêm :  Hình ảnh mùa xuân đẹp nhất ❤️ top thế giới và việt nam

Nhìn một cách khái lược nhất lịch sử của phạm trù chân lý nghệ thuật, gạt bỏ những hạn chế, giữ lại những điểm cơ bản của từng quan niệm qua các thời kỳ, có những điểm cần thiết sau:

Nghệ thuật là tài năng. Nếu không đủ tài làm nghệ thuật sẽ rất khổ, hoặc sẽ cho ra những sản phẩm không phải nghệ thuật hoặc dở dang. Nói đến tài năng trong nghệ thuật thì trước hết phải nói đến năng khiếu. Không có điều kiện tiên quyết này nên đi làm nghề khác. Sau đó là cần cù, tâm huyết, say mê.

Nhiều nghệ sỹ lớn khẳng định để làm nên tài năng thì cần đến 99% là cần cù và 1% là năng khiếu. Điều ấy có lý, nhưng nên nhớ năng khiếu dù là 1% nhưng không có 1% này sẽ không có tài năng nghệ thuật. Bồi dưỡng năng khiếu là rất cần thiết, nhưng cần thiết hơn là giáo dục tinh thần lao động nghệ thuật, trách nhiệm với đời sống cho người nghệ sỹ. Bài học của một họa sỹ thời Phục hưng: để vẽ người cho đẹp, cho đúng, hàng đêm người họa sỹ ấy phải mò vào nhà xác để mổ trộm các tử thi tìm hiểu từng đốt xương cơ…

Bổ sung cho tài năng là vốn sống. Thực ra sự cần cù cũng có thể làm nên vốn sống đầy đặn. Nhưng vì nghệ thuật là sự kết tinh của những mối quan hệ đời sống nên người nghệ sỹ không hiểu sâu biết rộng về đời sống dứt khoát sẽ không tạo ra một hình tượng đậm đà chất muối mặn mòi của cuộc đời.

Nhà nghệ sĩ làm giàu cho văn hóa dân tộc bằng tác phẩm nghệ thuật, mà tác phẩm ấy có được là nhờ ở sự kết tinh từ tài năng và nhân cách người nghệ sĩ. Văn học nghệ thuật luôn là lĩnh vực sáng tạo tinh thần đặc biệt gắn chặt với tư tưởng, tâm hồn con người nghệ sĩ. Thứ nhất, đây là lĩnh vực của cái tôi, của cá tính. Mà cá tính là cái riêng, nổi trội để tạo ra tiếng nói riêng, giọng điệu riêng. Nhưng phải là cá tính sáng tạo, tức là phải tạo ra cái mới, tiến bộ, phù hợp với lý tưởng thẩm mỹ, mới mẻ, độc đáo.

Người nghệ sỹ cống hiến cho xã hội không bằng số lượng của cải vật chất mà bằng các giá trị tinh thần, làm mới các giá trị tinh thần. Thứ hai, năng khiếu sáng tạo đòi hỏi người nghệ sỹ sự nhạy cảm, nhất là nhạy cảm trước những biến động xã hội. Có thể ví người nghệ sỹ như cái cần ăngten thu phát những tín hiệu đổi thay của cuộc sống. Nhưng không phải nghệ sỹ nào cũng có một sức đề kháng, một  “bộ lọc” hoàn hảo để thu phát những tín hiệu tích cực, lành mạnh, nên có người vô tình bị kẻ xấu lợi dụng mà trở thành cái loa tuyên truyền, gieo rắc những mầm mống tiêu cực.

Xem thêm :  10 preset chỉnh màu ảnh đẹp nhất cho camera raw

Thứ ba, về bản chất hình tượng thì văn học nghệ thuật sáng tạo ra một “cuộc sống thứ hai”, cuộc sống này thoát thai từ cuộc sống thực, nhưng nó chỉ là mô hình của cuộc sống chứ không phải “chụp ảnh” từ đời sống thực. Có bao nhiêu tác phẩm văn học nghệ thuật giá trị đích thực là có bấy nhiêu mô hình. Mà đã gọi là mô hình thì có cái giống, có cái khác, lại có cái xa lạ, thậm chí ngược với đời sống thực. Chính vì lẽ này mà tiếp nhận văn học nghệ thuật luôn là vấn đề phức tạp. Có mô hình bị ngợi ca vô lối, có mô hình bị hiểu sai, có cái thì bị lợi dụng…

Thứ tư, xét ở góc độ tiếp nhận thì văn học nghệ thuật là món ăn tinh thần không thể thiếu, nhưng trong thời buổi tiếp biến văn hóa mạnh mẽ hiện nay lại có món ăn, vì nhiều lý do cả chủ quan lẫn khách quan mà dễ bị/gây ngộ độc.      

Tâm lý học sáng tạo nghệ thuật khẳng định trong cấu trúc tư chất ở người nghệ sỹ, thì điều trước hết cần có là giàu tình cảm, dễ xúc động. Trong khoa học thì tình cảm nằm trong tiền đề sáng tạo, còn trong nghệ thuật thì tình cảm nằm ngay trong thành phần sáng tạo. Nghệ thuật không thể tầm thường đã đành, nghệ thuật phải trên mức thông thường là như vậy.

Tài năng nghệ thuật luôn là hiếm hoi, bởi không chỉ có cần cù mà phải có năng khiếu mới tạo tiền đề để có một con người nghệ sỹ. Hiếm cho nên quý. Do vậy rất cần tạo ra một cơ chế riêng ưu đãi cho giới nghệ sỹ. Nghệ sỹ luôn sống và sáng tạo bằng cái tôi, do vậy, rất cần tạo ra một môi trường cái tôi đặc thù của nghệ sỹ phát triển lành mạnh. Nhưng họ cũng là một công dân, dù có tự do trong cái tôi thì vẫn phải ý thức được trách nhiệm công dân của mình là sáng tạo theo tinh thần, phụng sự nhân dân, chống lại cái ác, cái xấu, cái lỗi thời, cái phản động.

Cuộc sống cách mạng vừa là cái nôi, là mảnh đất màu mỡ, vừa là cảm hứng, vừa là đối tượng sáng tạo của nghệ thuật hôm nay. Bất kỳ một nghệ thuật chân chính nào, trước nay cũng đều bắt nguồn từ đời sống, phản ánh và phục vụ đời sống. Và như vậy mới có thể làm tròn sứ mệnh “soi đường cho quốc dân đi”. Ở ngày hôm nay, khi xã hội vận hành theo cơ chế thị trường thì văn học nghệ thuật càng phải quán triệt đối tượng phục vụ là quần chúng. Vì xét đến cùng, một vở kịch, một cuốn tiểu thuyết… phải có người xem, người đọc, mà số lượng người đọc đông đảo nhất là quần chúng nhân dân.

Xem thêm :  Cc cream là gì? tổng hợp thông tin bạn cần biết

Cái đẹp nằm trong cuộc sống, là chân lý cuộc sống. Người nghệ sỹ phải đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để khám phá, sáng tạo. Viết về đề tài tình dục, tiền vàng, chuyện cướp bóc, tù tội… cũng tức là viết về đời sống, thuộc về đời sống nhưng dứt khoát không phải là điều cơ bản, không phải cái đẹp kết tinh, không phải là ý nghĩa mang tầm thời đại. Chủ nghĩa Mác quan niệm hiện thực là nguồn gốc của nhận thức. Văn nghệ là một hình thái ý thức nên càng phải cắm sâu vào mảnh đất hiện thực để hút lấy chất dinh dưỡng của cuộc đời.

Thoát ly hiện thực, nghệ thuật nhất định khô héo. Vậy thì một trong những cách để thúc đẩy sự phát triển của văn học nghệ thuật hôm nay là tạo điều kiện cho văn nghệ sỹ thâm nhập thực tế, càng nhiều càng tốt, càng sâu càng hay. Chỉ có từ đời sống, bắt nguồn từ đời sống mới có thể nảy nở những tài năng. Không có cách nào khác, muốn rèn luyện tài năng thì người nghệ sĩ phải trở về cái gốc của nghệ thuật là đời sống muôn màu muôn vẻ kia.

Để phát hiện những năng khiếu, điều kiện cần có của tài năng cũng phải tìm từ đời sống. Trong lịch sử văn hóa nhân loại cũng chưa có thiên tài nghệ thuật nào không được gieo hạt, nảy mầm, bắt rễ, lớn lên, trưởng thành từ cái nôi đời sống.

Chân lý nghệ thuật là chân lý về quan hệ. Người nghệ sỹ không có một quan hệ mật thiết với nhân dân, vì nhân dân, vì đất nước, vì cái đẹp, vì một quan niệm nhân sinh tiến bộ muốn nâng đỡ con người chắc chắn sẽ không tạo ra những hình tượng mang giá trị nhân bản, nhân văn.


16 CHÂN LÝ CUỘC SỐNG BẠN NHẤT ĐỊNH PHẢI NHỚ – Thiền Đạo


16 CHÂN LÝ CUỘC SỐNG BẠN NHẤT ĐỊNH PHẢI NHỚ.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tổng Hợp

Related Articles

Back to top button